Xin Nhấn vào đây để nghe Bài Giảng hoặc tải xuống
Bài đọc: 1 Jn 5:14-21; Jn 3:22-30.
1/ Bài đọc I: 14 Lý do khiến chúng ta được mạnh dạn trước mặt Thiên Chúa, đó là: Người nhậm lời chúng ta, khi chúng ta xin điều gì hợp ý Người.
15 Nếu chúng ta biết rằng Người nhậm mọi lời chúng ta xin,
thì chúng ta cũng biết rằng chúng ta sẽ được những gì chúng ta đã xin Người.
16 Nếu ai biết anh em mình phạm thứ tội không đưa đến cái chết, thì hãy cầu xin,
và Thiên Chúa sẽ ban sự sống cho người anh em ấy;
đó là nói về những ai phạm thứ tội không đưa đến cái chết.
Có một thứ tội đưa đến cái chết, tôi không bảo phải cầu xin cho thứ tội ấy.
17 Mọi điều bất chính đều là tội, nhưng có một thứ tội không đưa đến cái chết.
18 Chúng ta biết rằng phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra, người đó không phạm tội;
nhưng có Đấng Thiên Chúa đã sinh ra giữ gìn người ấy, và Ác thần không đụng đến người ấy được.
19 Chúng ta biết rằng chúng ta thuộc về Thiên Chúa,
còn tất cả thế gian đều nằm dưới ách thống trị của Ác thần.
20 Chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến và ban cho chúng ta trí khôn để biết Thiên Chúa thật. Chúng ta ở trong Thiên Chúa thật, ở trong Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô. Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là sự sống đời đời.
21 Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, hãy tránh xa các tà thần!
2/ Phúc Âm: 22 Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đi tới miền Giu-đê. Người ở lại nơi ấy với các ông và làm phép rửa.23 Còn ông Gio-an, ông cũng đang làm phép rửa tại Ê-nôn, gần Sa-lim, vì ở đấy có nhiều nước, và người ta thường đến chịu phép rửa.24 Lúc ấy, ông Gio-an chưa bị tống giam.
25 Bấy giờ, có một cuộc tranh luận xảy ra giữa các môn đệ của ông Gio-an và một người Do-thái về việc thanh tẩy.26 Họ đến gặp ông Gio-an và nói: “Thưa thầy, người trước đây đã ở với thầy bên kia sông Gio-đan và được thầy làm chứng cho, bây giờ ông ấy cũng đang làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với ông.”27 Ông Gio-an trả lời: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.28 Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: “Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người.29 Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn.30 Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tội và cách thức để được tha tội
Tội là nguyên nhân gây ra cái chết. Ngay từ đầu, tác giả Sách Sáng Thế đã thuật lại Tội Nguyên Tổ của Adam và Evà và cái chết thống trị con người từ đó. Nhưng Thiên Chúa cũng đã có kế hoạch ngay từ đầu để cứu thoát con người và không để cho con người chìm đắm trong tội bởi sự lôi cuốn của ba thù là ma quỉ, thế gian và xác thịt. Kế hoạch đó được thi hành qua Đức Kitô. Ngài nhập thể và chịu chết trên Thập Giá để cất đi tất cả tội lỗi cho con người. Con người tuy vẫn có khuynh hướng phạm tội; nhưng con người đã được Thiên Chúa cho cách hiệu quả để thoát ra.
Hai bài đọc hôm nay tập trung trong cách để thoát ra đó. Trong bài đọc I, sau khi đã phân biệt giữa tội mang lại cái chết và tội không mang lại cái chết, tác giả trình bày cách chúng ta có thể thoát sự kiềm toả của tội là chạy đến với Đức Kitô: thú nhận tội lỗi và lãnh nhận ơn tha thứ. Trong Phúc Âm, một cuộc tranh luận xảy ra giữa một người Do-thái và các môn đệ của Gioan về sự khác biệt của hai phép rửa. Gioan đã trình bày cách rõ ràng phép rửa của ông không có quyền năng tha tội; nhưng chỉ là phép rửa bằng nước để tỏ lòng ăn năn xám hối. Chỉ phép rửa của Chúa Giêsu mới có quyền tha tội và ban những hồng ân của Thánh Thần.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Làm sao để được tha tội sau khi đã chịu phép rửa làm con Chúa?
1.1/ Phân biệt hai loại tội: Trước tiên chúng ta cần phân biệt tất cả các tội trọng mà không thú nhận đều đưa đến cái chết. Tác giả có ý gì khi phân biệt hai loại tội?
(1) Tội đưa đến cái chết: Như chúng ta cắt nghĩa trong phần sau: Người Kitô hữu được hưởng đặc quyền là có bí tích Giải-tội mà Chúa Giêsu đã thiếp lập để tha tội cho con người. Nhưng nếu người Kitô hữu, sau khi phạm tội trọng, từ chối không thèm lãnh nhận ơn tha thứ bằng cách lãnh nhận bí tích Giải-tội, anh ta sẽ lãnh nhận cái chết vì tội cứng lòng.
(2) Tội không đưa đến cái chết: là những tội con người có thể xúc phạm đến Chúa; nhưng sau khi phạm tội, con người nhận ra tội lỗi của mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân, vì yếu đuối hay vì bất cứ một lý do gì khác, biết ăn năn thống hối và chạy đến với bí tích Giải-tội để xưng thú, tội lỗi của anh sẽ được tha và không phải chết. Tác giả khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho tất cả những ai đã phạm tội biết chạy đến với Chúa nơi toà cáo giải. Còn những ai cố tình ở trong tội, chúng ta cũng vẫn cầu xin cho họ mềm lòng ra để trở về với Chúa, cho dẫu phải chịu tai nạn trăm bề! Chúa có nhiều cách để đưa những người cứng lòng trong tội được trở về.
1.2/ Hiểu thế nào câu tác giả nói hôm nay: “Phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra, người đó không phạm tội; nhưng có Đấng Thiên Chúa đã sinh ra giữ gìn người ấy, và Ác thần không đụng đến người ấy được.” Có phải một khi đã được Thiên Chúa sinh ra qua phép rửa tội là người Kitô hữu không bao giờ phạm tội nữa không? Thực tế chứng minh mọi Kitô hữu đều phạm tội và phạm tội nhiều lần sau khi chịu phép rửa tội.
(1) Chính tác giả đã xác quyết mọi Kitô hữu đều phạm tội ngay trong chương đầu tiên: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình,và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi,Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta,và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính. Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (I Jn 1:8-10). Vì thế, tác giả kết tội những người tuyên bố mình không phạm tội là người dối trá và coi Thiên Chúa là kẻ nói dối vì Thiên Chúa sai Con của Ngài xuống trần gian là để tha tội. Không có tội thì cũng sẽ không cần tha thứ! Và tác giả cũng kết tội mình nếu ông có ý muốn nói người sinh ra bởi Thiên Chúa không hề phạm tội. Trong những câu trích kế tiếp, ông soi sáng cho chúng ta hiểu ý của ông muốn nói.
(2) Làm sao để tội được tha: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi,
tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính. Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (I Jn 2:1-2). Điều chính ông muốn nói ở đây là người Kitô hữu luôn có cách để tội được tha là chạy đến với Đức Kitô để xưng thú và lãnh nhận ơn tha thứ từ Ngài. Đây là một đặc quyền mà chỉ người Kitô hữu tin tưởng và nhận lãnh được. Người Do-thái không thể được tha tội vì họ không còn Đền thờ để dâng của lễ. Người Dân Ngoại cũng không biết cách nào để cho tội họ được tha. Chỉ người Kitô hữu, sau khi biết mình đã yếu đuối xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân, biết dục lòng ăn năn, thống hối và dùng bí tích giải tội để giao hoà với Thiên Chúa và tha nhân.
2/ Phúc Âm: Phân biệt hai phép rửa và hai sứ vụ khác nhau
Khi bắt đầu có hai sự kiện hay hai trường phái là bắt đầu có ngộ nhận và tranh luận. Trong Phúc Âm hôm nay, một người Do-thái đến tranh luận với môn đệ của Gioan về hai phép rửa. Các môn đệ của Gioan có lẽ không trả lời được, nên dẫn đến gặp thầy mình để hỏi: “Thưa thầy, người trước đây đã ở với thầy bên kia sông Gio-đan và được thầy làm chứng cho, bây giờ ông ấy cũng đang làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với ông.”
2.1/ Phép rửa và sứ vụ của Gioan Tẩy Giả:
(1) Phép rửa làm bởi Gioan Tẩy Giả: Như chúng ta đã nói trong bài trước: phép rửa của Gioan chỉ là phép rửa để tỏ lòng ăn năn xám hối, chứ không có năng lực để tha tội. Phép rửa của Gioan chuẩn bị cho mọi người đến với Chúa Giêsu để chịu phép rửa với Ngài.
(2) Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả: Chính Gioan đã thú nhận khi được hỏi: “Ông có phải là Đấng Kitô không?” Ông trả lời: “Ông không phải là Đấng Kitô; nhưng chỉ là người đi dọn đường cho Đức Kitô.” Trong trình thuật hôm nay, ông nói với các môn đệ của ông: “Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: ‘Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi.’” Vai trò của Gioan được xác định rõ ràng: Ông chỉ là người đi dọn đường, là bạn của chàng rể, và niềm vui của ông là được nghe tiếng của chàng rể là Đức Kitô và khi được nhìn thấy mọi người tuôn đến với Ngài.
2.2/ Phép rửa và sứ vụ của Chúa Giêsu:
(1) Phép rửa làm bởi Chúa Giêsu: Phép rửa của Chúa Giêsu làm là phép rửa có năng lực để tha tội. Thời của Giáo Hội, phép rửa này được nâng lên là một trong bảy bí tích. Phép rửa này không những làm bằng nước để tha tội, nhưng người chịu còn lãnh nhận Chúa Thánh Thần, và chính thức được nhận làm con Thiên Chúa. Vì thế, không phải chỉ tội được tha; nhưng người chịu còn được lãnh nhận các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Đối với người lớn chịu phép rửa này, họ còn được lãnh nhận ba nhân đức đối thần: tin-cậy-mến nữa.
(2) Sứ vụ của Chúa Giêsu: Gioan là người đầu tiên nói lên sứ vụ tha tội của Chúa Giêsu khi ông giới thiệu Chúa Giêsu với các môn đệ của ông: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng lấy đi tội của trần gian” (Jn 1:29). Ngoài sứ vụ chịu chết để lấy đi tội của trần gian, Chúa Giêsu còn nhiều sứ vụ khác như rao giảng Tin Mừng, mặc khải những sư thật từ Chúa Cha cho dân biết, gọi và huấn luyện các tông đồ để các ông tiếp tục sứ vụ sau khi Ngài về trời…
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Có nhiều những lẫn lộn và hiểu lầm từ Kinh Thánh và những giáo huấn của Giáo Hội.
– Chúng ta cần học hỏi và tìm hiểu kỹ càng để biết được sự thật đàng sau những lời Kinh Thánh và những giáo huấn đó.
– Một sự hiểu biết và giải thích mù mờ sẽ làm cho chúng ta và độc giả hoang mang và lìa xa sự thật.