Thứ Hai – Tuần 21 – TN1

Xin Nhấn vào đây để nghe Bài Giảng hoặc tải xuống

 

Thứ Hai – Tuần 21 – TN1

 

Bài đọc: I Thes 1:1-5, 8b-10; Mt 23:13-22

1/ Bài đọc I: 1 Chúng tôi là Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê, kính gửi Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca ở trong Thiên Chúa Cha, và trong Chúa Giê-su Ki-tô. Chúc anh em được ân sủng và bình an.

2 Chúng tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa về tất cả anh em. Chúng tôi nhắc đến anh em trong lời cầu nguyện,

3 và trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô.

4 Thưa anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em,

5 vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em;

8 Quả thế, từ nơi anh em, lời Chúa đã vang ra, không những ở Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa, khiến chúng tôi không cần phải nói gì thêm nữa.

9 Khi nói về chúng tôi, người ta kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật,

10 và chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, người Con mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là Đức Giê-su, Đấng cứu chúng ta thoát cơn thịnh nộ đang đến.

2/ Phúc Âm: 13 “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào.

14 Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.

15 “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người.

16 “Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng! Các người bảo: “Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc.”

17 Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn?

18 Các người còn nói: “Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc.”

19 Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn?

20 Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề.

21 Và ai chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề.

22 Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.


 

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Một niềm tin, hai lối sống.

Thủ tướng Ghandi có lần nhận xét: “Nếu tất cả các Kitô hữu sống đúng những gì Chúa dạy, có lẽ cả thế giới đã tin vào Ngài.” Thật vậy, các Kitô hữu là những người cùng chung một niềm tin nơi Thiên Chúa, nhưng không phải ai cũng thực hành những gì Ngài dạy.

Các bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy những ví dụ cụ thể về hai lối sống của những người cùng một niềm tin vào Thiên Chúa. Trong bài đọc I, thánh Phaolô khen ngợi các tín hữu Thessalonica, vì họ không chỉ tin Đức Giêsu Kitô, nhưng còn sống niềm tin này cách sống động, đến nỗi gương sáng của họ không chỉ chiếu dọi trong các cùng Macedonia và Achaia, mà còn lan rộng tới những nơi mà Phaolô rao giảng. Ngược lại, trong Phúc Âm, Chúa Giêsu quá chán ghét và phê bình nặng nề lối sống giả hình của các Kinh-sư và Biệt-phái. Họ tìm đủ mọi cách để biện minh cho thói giả hình để không phải thực thi Lề Luật của Thiên Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Lối sống chân thật của các tín hữu Thessalonica

1.1/ Phaolô chứng nhận cuộc sống chân thật của các tín hữu Thessalonica: Có lẽ trong tất cả cộng đoàn mà thánh Phaolô đã thiết lập, không một cộng đoàn nào có đời sống gương mẫu như cộng đoàn Thessalonica. Trong lời mở đầu Thư, Phaolô chỉ đề cập đến gương sáng của họ cách tổng quát như sau: “Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô.”

Đức tin của các tín hữu Thessalonica không phải chỉ biểu tỏ bằng lời nói, nhưng bằng các việc làm. Đức ái của họ biểu lộ ra bằng cách gánh chịu các nỗi khó nhọc của nhau. Đức cậy của họ biểu tỏ bằng cách kiên nhẫn chịu đựng trong khi chờ đợi Ngày Đức Kitô quang lâm vinh hiển.

Loan báo Tin Mừng và sống những giá trị của Tin Mừng không phải chỉ thuần túy lời nói, nhưng còn liên quan đến ba điều quan trọng là:

(1) Quyền năng (dunamis): Danh từ này chỉ dành cho Thiên Chúa. Quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện trong cả việc rao giảng lẫn việc sống những gì Tin Mừng đòi hỏi.

(2) Thánh Thần: Để có đức tin, Thánh Thần phải hoạt động trong cả người rao giảng lẫn người nghe.

(3) Sự xác tín sâu xa (plerophoría polle): Có lẽ thánh Phaolô muốn ám chỉ niềm tin tuyệt đối của các tín hữu vào những gì Tin Mừng chứa đựng: Đức Kitô, những lời giảng dạy của Ngài, sự tha tội, sự sống lại… Từ này được dùng nhiều trong Tân Ước (Col 2:2; Heb 6:11; 10:22, Rom 15:29).

1.2/ Tiếng lành đồn xa: Đức tin là sự xác tín bên trong tâm hồn không ai thấy được, nhưng những biểu lộ của đức tin là những hành động bên ngoài, và ai cũng có thể nhìn thấy. Sở dĩ thánh Phaolô biết được đức tin của các tín hữu Thessalonica, là vì những lời khen ngợi từ những người ngài có dịp giao tiếp với: “Quả thế, từ nơi anh em, Lời Chúa đã vang ra, không những ở Macedonia và Achaia, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa, khiến chúng tôi không cần phải nói gì thêm nữa.”

2/ Phúc Âm: Lối sống giả hình của các Kinh-sư và Biệt-phái.

Giả hình (hupokrites) trong tiếng Hy-lạp có nghĩa “người trả lời.” Vì thế, theo truyền thống Hy-lạp, chữ này có liên quan đặc biệt đến những người trả lời trong cuộc đối thoại của các vở kịch trên sân khấu, các diễn viên. Họ là những người đóng kịch, trong lòng đang vui mà phải giả bộ khóc hay đang buồn mà phải cố cười để mua vui cho thiên hạ. Nói tóm, người giả hình là người sống không thật với lòng mình.

Đứng trước thử thách và đau khổ, những người theo lối sống giả hình sẽ tìm cách không phải chịu gian khổ bằng cách nêu lên mọi lý do để biện minh cho hành động nhát đảm sợ sệt của mình. Họ sẽ cố gắng che đậy sự ích kỷ trong lòng bằng những hành động giả ân nghĩa bên ngoài.

Chúa Giêsu gọi các Kinh-sư và Biệt-phái là những hạng người này: “Khốn cho các ngươi, hỡi các Kinh-sư và Biệt-phái giả hình! Các ngươi khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào. Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào. Khốn cho các ngươi, hỡi các Kinh-sư và Biệt-phái giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.”

Kinh-sư và Biệt-phái khóa cửa Nước Trời bằng lối sống giả hình. Làm sao họ có thể vào Nước Trời bằng giữ chi li bao lề luật không cần thiết mà bỏ quên biết bao điều quan trọng của Luật như công bằng, nhân từ và trung tín? Và nếu dân chúng cũng tin họ và làm như thế thì cũng chẳng được vào Nước Trời.

Chúa cũng lên án họ về việc không chịu làm gương sáng cho những người mới theo đạo: “Khốn cho các người, hỡi các Kinh-sư và Biệt-phái giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người.” Thay vì làm gương sáng, họ làm gương mù và dạy cho những người mới trở lại đạo giả hình của mình. Những người mới vào đạo thường hăng hái và nhiệt thành hơn những người đã theo đạo lâu năm; nếu không nhiệt thành về điều tốt, họ sẽ nhiệt thành về những gì xấu đã được chỉ dạy.

Các Kinh-sư và Biệt-phái là những người làm luật và thông luật. Họ biết cách phiên dịch luật sao cho trắng hóa đen, đúng hóa sai, bằng cách thêm bớt hay tìm chỗ sơ hở của lề luật. Một ví dụ Chúa Giêsu đưa ra hôm nay về việc chỉ Đền Thờ mà thề. Luật dạy khi đã chỉ Đền Thờ, nơi Thiên Chúa hiện diện, thì phải giữ lời thề đó bằng bất cứ giá nào. Nhưng các Kinh-sư và Biệt-phái tìm cách làm cho lời thề đó không phải giữ bằng cách lý luận loanh quanh. Họ bảo: “Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc.”

Chúa vạch trần những lý luận khôi hài của họ: “Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn? Các ngươi còn nói: “Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc.” Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề.”

Và Chúa kết luận: “Ai chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Cùng một niềm tin có thể dẫn tới hai lối sống hoàn toàn trái ngược nhau: một lối sống dựa trên tin yêu và một lối sống giả hình hoàn toàn bên ngoài.

– Con người có thể bị đánh lừa bằng lối sống giả hình bên ngoài, nhưng Thiên Chúa không bao giờ bị đánh lừa vì Ngài thấu suốt mọi sự trong tâm hồn.

– Chúng ta cần biết sống đơn sơ và thành thật trước mặt Thiên Chúa và con người. 

Skip to content