Xin Nhấn vào đây để nghe Bài Giảng hoặc tải xuống
Thứ Hai, Tuần I TN2
Bài đọc: Heb 1:1-6; I Sam 1:1-8; Mk 1:14-20.
1/ Bài đọc I (năm lẻ):
1 Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ;
2 nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài.
3 Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật. Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời. 4 Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu. 5 Thật vậy, có bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con hoặc là: Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta. 6 Khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa lại nói: Mọi thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người.
2/ Bài Đọc I (năm chẵn):
1 Có một người quê thành Ra-ma-tha-gim Xô-phim, thuộc miền núi Ép-ra-im, tên là En-ca-na, con ông Giơ-rô-kham; ông Giơ-rô-kham là con ông Ê-li-hu, ông Ê-li-hu là con ông Tô-khu, ông Tô-khu là con ông Xúp, người Ép-ra-tha. 2 Người ấy có hai vợ, một bà tên là An-na, một bà tên là Pơ-nin-na. Bà Pơ-nin-na có con, còn bà An-na không có con.
3 Hằng năm, người ấy từ thành mình lên thờ lạy và dâng hy lễ cho Đức Chúa các đạo binh tại Si-lô. Ở đó có hai con trai ông Ê-li là Khóp-ni và Pin-khát làm tư tế của Đức Chúa.
4 Đến ngày ông En-ca-na dâng hy lễ, ông thường chia các phần cho bà Pơ-nin-na, vợ ông, và cho các con trai con gái bà ấy. 5 Còn bà An-na, thì ông chia cho một phần ngon, vì ông yêu bà, mặc dù Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. 6 Bà kia, đối thủ của bà, cứ chọc tức bà, để hạ nhục bà, vì Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. 7 Ông vẫn làm như thế năm này qua năm nọ, mỗi lần bà lên Nhà của Đức Chúa; còn bà kia cứ chọc tức bà như thế. Bà khóc và không chịu ăn. 8 Ông En-ca-na, chồng bà, bảo bà: “An-na, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao lòng em rầu rĩ vậy? Đối với em, anh lại không hơn mười đứa con trai sao?”
3/ Phúc Âm:
14 Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.
15 Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” 16 Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá.
17 Người bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” 18 Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
19 Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền.
20 Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cùng nhau làm việc.
Người Việt
Hơn nữa, để làm việc chung có hiệu quả, trước khi trao công việc, chúng ta phải: huấn luyện để các cộng sự viên biết làm những gì chúng ta trao cho họ; trao việc là phải trao quyền hành: cộng sự viên là những người đại diện chúng ta để giải quyết vấn đề, chúng ta cần cho họ biết trước những giới hạn về quyền hành nếu có; và phải giúp mọi phương tiện, để họ có thể thi hành sứ vụ được trao phó.
Các Bài đọc hôm nay cho thấy ích lợi của làm việc chung: Trong Bài Đọc I, năm lẻ, Thiên Chúa Cha làm việc chung với các tiên-tri, các thiên-thần, và với Con của Ngài. Trong quá khứ, Người dùng miệng các tiên-tri mà loan báo cho mọi người những gì Ngài muốn; nhưng khi thời gian viên mãn, Người đã dùng chính Người Con để mặc khải và dạy dỗ con người. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, tác giả nêu lên sự tương phản giữa sự khinh thường và sự thông cảm hoàn cảnh đau khổ của bà Hannah. Bà Peninnah luôn tìm cơ hội để chọc tức và khinh thường; trong khi ông Elkanah luôn tìm dịp an ủi và yêu thương bà Hannah. Trong Phúc Âm, sau khi nhận lãnh sứ vụ từ Chúa Cha, Chúa Giêsu mời gọi 4 môn đệ đầu tiên để Ngài huấn luyện họ, trước khi sai họ đi để tiếp tục sứ vụ của Ngài trên trần gian.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Thiên Chúa làm việc chung với các tiên tri, với Con, và với các thiên thần.
1.1/ Thiên Chúa làm việc với các tiên-tri: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên-tri.” Thánh Thomas Aquinas đưa ra một nguyên tắc nền tảng: Thiên Chúa làm mọi sự cho con người qua cách thức của con người. Vì nếu không theo cách thức đó, con người sẽ không thể hiểu được. Ví dụ, để con người hiểu được những gì Chúa muốn, Chúa dùng miệng các tiên tri để các ngài dùng tiếng nói của con người mà nói những gì Chúa muốn. Dĩ nhiên, trước đó Chúa phải cho các tiên tri biết Chúa muốn nói gì: có thể bằng thị kiến, có thể bằng tác động trên trí não, miệng lưỡi … Trong Cựu Ước, Thiên Chúa không làm việc trực tiếp với dân, nhưng qua các thiên-thần, các tổ-phụ, các thủ-lãnh, và các tiên-tri. Tác giả Thư Do-Thái nhấn mạnh đến hai đặc thù của sự làm việc qua các tiên-tri:
(1) Nhiều lần: Phải dịch tiếng Hy-Lạp đúng hơn là “nhiều phần.” Vì con người không đủ khả năng để lĩnh hội một lần tất cả, nên Thiên Chúa phải chia ra nhiều phần, mỗi tiên tri một phần. Ví dụ: tiên-tri Amos nhấn mạnh đến công bằng xã hội; tiên-tri Isaiah đến sự thánh thiện của Thiên Chúa; tiên-tri Hosea đến sự trung thành của Thiên Chúa và sự bất trung của con cái Israel.
(2) Nhiều cách: Các tiên tri dùng các cách khác nhau để thông báo sứ điệp của Thiên Chúa: cách thông thường nhất là dùng miệng, nhưng cũng có người dùng hành động như đóng kịch của tiên-tri Jeremiah.
1.2/ Thiên Chúa làm việc với Người Con: “Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Người Con. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài.”
(1) Trong tất cả mọi việc: tạo dựng, quan phòng, cứu chuộc. Như Tin Mừng của Gioan, tác giả Thư Do-Thái tin Người Con làm việc tích cực với Chúa Cha trong ba công việc này. Ngài là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
(2) Sự cao trọng của Người Con: “Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa.” Người là ánh sáng và là hình ảnh của Thiên Chúa đến độ như Ngài nói: “hễ ai thấy Con là cũng thấy Cha.”
Người Con không những cao trọng hơn các tiên-tri vì Ngài mặc khải cho con người mọi sự nơi Thiên Chúa, mà còn cao trọng hơn các thiên thần vì tất cả quyền năng, danh dự, và vinh quang của Thiên Chúa tập trung trong Ngài. “Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi vượt hơn họ bấy nhiêu.” Và “Mọi thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người.” Điều đặc biệt là với Người Con, từ nay con người có thể liên hệ trực tiếp với Thiên Chúa, mà không cần qua các tiên tri hay thiên sứ như thuở xưa nữa.
2/ Bài Đọc I (năm chẵn): Hai thái độ trước nỗi đau khổ của tha nhân
2.1/ Thái độ khinh thường và chọc tức của bà Peninnah: Trình thuật kể ông Elkanah có hai vợ: bà Peninnah và bà Hannah. Bà Peninnah có con, còn bà Hannah không có con. Hằng năm, ông Elkanah đưa gia đình lên thờ lạy và dâng hy lễ cho Đức Chúa các đạo binh tại
Ông Elkanah đối xử công bằng đồng đều và yêu thương mọi người trong gia đình; nhưng bà Peninnah thì không. Bà luôn kiếm cơ hội để chọc tức và hạ nhục bà Hannah, vì Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. Đây là điều thường xảy ra cho những người có nhiều vợ, vì bà nào cũng muốn không những được chồng thương yêu; nhưng còn phải ghét bỏ những bà khác.
2.2/ Thái độ thông cảm với nỗi buồn tủi của bà Hannah: Khi nhìn thấy nỗi đau khổ của bà Hannah, ông Elkanah biết ông không thể thay đổi tính kiêu ngạo và ghen tị của bà Peninnah; nên ông dành tình yêu thương cho Bà Hannah nhiều hơn. Khi thấy bà khóc và không chịu ăn, ông Elkanah an ủi bà: “Hannah, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao lòng em rầu rĩ vậy? Đối với em, anh lại không hơn mười đứa con trai sao?”
Làm vợ mà không có con là một sự sỉ nhục cho người đàn bà. Miệng lưỡi người thế gian thường cho là hậu quả của việc ăn ở thất nhân ác đức. Đó là lý do bà Hannah u sầu đau khổ: Bà biết mình không ăn ở thất nhân, ác đức; nên Bà đến cầu xin thống thiết với Thiên Chúa. Nếu Ngài thương cất nỗi nhục nhằn và ban cho Bà một mụn con trai, Bà sẽ dâng con trả lại cho Thiên Chúa, để nó phục vụ Ngài suốt đời; chứ Bà sẽ không giữ con cho mình. Thiên Chúa đã thấu hiểu nỗi đau khổ của Bà; nên qua miệng thầy cả Eli, Ngài hứa sẽ ban cho Bà điều Bà xin.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu gọi 4 môn đệ đầu tiên.
3.1/ Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá: Trình thuật hôm nay bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng của Chúa Giêsu sau 30 năm ẩn mình tại
(1) Thời giờ đã điểm, triều đại của Thiên Chúa đã đến: Giống như Thư Do-Thái, Marcô nhấn mạnh đến sự xuất hiện quan trọng của Chúa Giêsu: tuy vẫn có sự liên tục trong Kế Họach Cứu Độ, nhưng Chúa Giêsu mang Kế-hoạch này đến chỗ hoàn hảo.
(2) Anh em hãy xám hối và tin vào Tin Mừng: Đây là điều kiện để con người được hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.
Để kiếm người cộng tác loan truyền sứ điệp, Chúa Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên. Ngài không xa lạ gì với Biển Hồ Galilee và dân chài lưới, có thể Ngài đã từng dạo chơi chung quanh, và đã nói chuyện với họ; nhưng hôm nay, Ngài mời gọi họ bỏ mọi sự để cất bước theo Ngài. Nghề đánh cá là nghề khó nhọc và đòi hỏi rất nhiều kiên nhẫn: phải thả lưới bắt cá khi nào cá đi tìm mồi, chứ không phải muốn thả lúc nào thì thả. Thời giờ bắt cá thường là đêm tối cho đến lúc tảng sáng, đó là giờ ngủ của con người. Chúa Giêsu chỉ hứa hẹn với các ông một điều: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Nói cách khác, Ngài hứa sẽ huấn luyện các ông để cứu vớt linh hồn của người ta. Ngài muốn cho các ông nhận ra ý nghĩa của cuộc đời bằng chính việc các ông đang làm: Đánh cá để kiếm của ăn sinh sống không quan trọng cho bằng việc đánh cá để cứu linh hồn các con người đang cần đến các ông.
3.2/ Thái độ của các môn đệ khi được Chúa Giêsu gọi.
(1) Simon và Anrê: Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. Thái độ của hai ông đáp trả rất can đảm và dứt khóat. Can đảm vì phải bỏ nghề nghiệp sinh sống, các ông không chút thắc mắc “giải nghệ rồi làm gì ăn?” Dứt khóat vì quyết định rất nhanh chóng, không tiếc nuối chút nào cả.
(2) Giacôbê và Gioan: Các ông bỏ cha mình là ông Zebedee ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người. Hai ông không những bỏ nghề mà còn bỏ cả cha, đấng sinh thành ra mình. Chúa Giêsu phải có điều gì lôi cuốn các ông hơn là nghề nghiệp và tình cảm gia đình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Thiên Chúa có thể làm tất cả một mình, nhưng Ngài muốn sự cộng tác của con người. Ngài muốn con người cộng tác với nhau để cùng nhau sinh sống và giúp đỡ lẫn nhau. Để có thể làm việc chung, chúng ta cần tin tưởng, thông cảm, giúp đỡ, và tạo cơ hội thuận tiện cho tha nhân để họ có thể đóng góp vào công việc chung.
– Chúng ta cần tuyệt đối tránh thái độ kiêu ngạo, khinh thường tha nhân, và sợ họ hơn mình. Để có được những điều này, chúng ta cần có tầm nhìn rộng lớn, tích cực, và những lợi ích do làm việc chung mang lại.
– Chúng ta cần phản ứng cách tích cực trước lời mời gọi của Thiên Chúa; nhất là trong việc rao giảng Tin Mừng. Mỗi người được Chúa ban tài năng và hoàn cảnh khác nhau để góp phần trong việc mang Lời Chúa đến cho mọi người.
CÁC BÀI VIẾT KHÁC
{loadposition user11}