Thứ Tư – Tuần 9 – TN1

Xin Nhấn vào đây để nghe Bài Giảng hoặc tải xuống

 

Thứ Tư – Tuần 9 – TN1 – Năm lẻ

Bài đọc: Tob 3:1-11, 16; Mk 12:18-27.

 

1/ Bài đọc I: 1 Bấy giờ, lòng tôi tràn ngập ưu phiền; tôi rên la kêu khóc và bắt đầu thở than cầu nguyện: 2 “Lạy Chúa, Ngài là Đấng công chính, mọi việc Ngài làm đều chính trực, tất cả đường lối Ngài đều là từ bi và chân thật; chính Ngài xét xử thế gian. 3 Và giờ đây, lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con, xin đoái nhìn và chớ phạt con vì những tội con đã phạm và những điều ngu muội của con cũng như của cha ông con. Các ngài đã đắc tội trước Thánh Nhan 4 và bất tuân mệnh lệnh của Ngài. Ngài đã để chúng con bị cướp phá, phải tù đày và chết chóc,nên trò cười, đề tài châm biếm và bia nhục mạcho mọi dân tộc, nơi chúng con đã bị Ngài phân tán. 5 Vâng, các phán quyết của Ngài thì nhiều và chân thật; Ngài đối xử như thế với con vì tội lỗi con, bởi chúng con đã không thi hành mệnh lệnh Ngài và đã chẳng sống theo chân lý trước nhan Ngài. 6 Và nay, xin Ngài đối xử với con theo sở thích của Ngài, xin truyền rút sinh khí ra khỏi con, để con biến khỏi mặt đất và trở thành bụi đất. Quả thật, đối với con, chết còn hơn sống, vì con đã nghe những lời nhục mạ dối gian khiến con phải buồn phiền quá đỗi. Lạy Chúa, xin truyền lệnh cho con được giải thoát khỏi số kiếp gian khổ này. Xin để con ra đi vào cõi đời đời. Lạy Chúa, xin đừng ngoảnh mặt không nhìn con. Quả thật, đối với con, thà chết còn hơn là suốt đời phải nhìn thấy bao nhiêu gian khổ, và phải nghe những lời nhục mạ.” 7 Cũng trong ngày hôm ấy, ở Éc-ba-tan xứ Mê-đi, cô Xa-ra, con gái ông Ra-gu-ên, đã nghe một trong những người tớ gái của cha cô nói lời nhục mạ. 8 Số là cô đã được gả cho bảy người chồng, nhưng họ đã bị ác quỷ Át-mô-đai-ô giết chết trước khi ăn ở với cô theo tục lệ vợ chồng. Người tớ gái nói: “Chính cô là kẻ sát phu! Coi đó, cô đã có bảy đời chồng mà chẳng được mang tên ông nào! 9 Tại sao chỉ vì mấy người chồng của cô đã chết mà cô lại đánh đập chúng tôi? Thôi, đi với mấy ông ấy cho rồi, và đừng bao giờ chúng tôi thấy cô có con cái gì hết!” 10 Vậy ngày hôm ấy, lòng cô Xa-ra ưu phiền và cô kêu khóc. Rồi lên lầu trên ở nhà cha cô, cô định thắt cổ tự tử. Nhưng nghĩ lại, cô tự nhủ: “Sẽ không bao giờ người ta nhục mạ được cha tôi và nói với người: “Ông chỉ có một cô con gái yêu quý, thế mà vì bạc phận, cô đã thắt cổ tự tử! Như vậy, tôi sẽ làm cho tuổi già của cha tôi phải buồn phiền đi xuống âm phủ. Nên tốt hơn là tôi đừng thắt cổ tự tử, mà phải cầu xin Chúa cho tôi chết đi, để đời tôi không còn phải nghe những lời nhục mạ nữa.” 11 Ngay lúc ấy, cô dang hai tay về phía cửa sổ, cầu nguyện rằng: “Chúc tụng Chúa, lạy Thiên Chúa từ nhân! Chúc tụng danh Chúa đến muôn đời, và mọi công trình của Chúa phải chúc tụng Ngài muôn muôn thuở. 16 Ngay lúc ấy, lời cầu xin của hai người là Tô-bít và Xa-ra đã được đoái nghe trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa.

 

2/ Phúc Âm: 18 Có những người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Họ hỏi Người: 19 “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta rằng: “Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ mà không để lại con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.” 20 Vậy có bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không để lại một đứa con nối dòng. 21 Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết mà không để lại một đứa con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy. 22 Cả bảy người đều không để lại một đứa con nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng chết. 23 Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ? Vì bảy người đó đã lấy bà làm vợ.” 24 Đức Giê-su nói: “Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao? 25 Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. 26 Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, các ông đã không đọc trong sách Mô-sê đoạn nói về bụi gai sao? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào? Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. 27 Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to! “



GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Có sự sống lại và cuộc sống đời sau. 

           

            Niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau là một mặc khải tiệm tiến. Mặc dù đã có tiềm ẩn trong Cựu Ước; nhưng chỉ với mặc khải của Chúa Giêsu và sự sống lại của Ngài, niềm tin này mới rõ ràng và chắc chắn hơn.

            Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy sự nhầm lẫn và đau khổ của con người khi không có niềm tin này. Trong Bài Đọc I, cả ông Tobit và cô Sarah đều cầu nguyện xin Thiên Chúa cho họ chết đi, vì không chịu nổi những đau khổ và nhạo báng xảy đến cho họ trong cuộc đời. Trong Phúc Âm, khi những người Sadducees muốn dùng Lề Luật để chứng minh không có sự sống lại, Chúa Giêsu đã mặc khải rõ ràng về có sự sống lại qua lời Thiên Chúa nói với Moses trong Xuất Hành 3:6, và thân xác phục sinh của con người sẽ không còn phải chịu ảnh hưởng của các định luật vật lý nữa, và họ sẽ sống như các thiên thần trên trời.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

 

1/ Bài đọc I: Sự quan phòng của Thiên Chúa

           

1.1/ Trường hợp của ông Tobit: Có hai lý do làm ông u sầu: thứ nhất, vì ông phải chứng kiến và chịu quá nhiều những đau khổ: bị cướp phá tàn nhẫn bởi Dân Ngoại, bị lưu đày, bị mù; thứ hai, bị châm biếm bởi kẻ thù, và nhất là chịu mỉa mai từ người vợ của mình. Ông không dám trách Thiên Chúa, vì ông biết đó là hậu quả của việc xúc phạm đến Ngài từ cha ông, và ngay cả từ chính cá nhân ông: “Vâng, các phán quyết của Ngài thì nhiều và chân thật; Ngài đối xử như thế với con vì tội lỗi con, bởi chúng con đã không thi hành mệnh lệnh Ngài và đã chẳng sống theo chân lý trước nhan Ngài.”

            Vì không có niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau, nên ông Tobit không tìm được một lý do nào để tiếp tục sống giữa bao đau khổ và nhạo cười; nên ông nghĩ chỉ còn một cách: xin Thiên Chúa chấm dứt cuộc đời trên cõi dương gian: “Xin truyền rút sinh khí ra khỏi con, để con biến khỏi mặt đất và trở thành bụi đất. Quả thật, đối với con, chết còn hơn sống, vì con đã nghe những lời nhục mạ dối gian khiến con phải buồn phiền quá đỗi. Lạy Chúa, xin truyền lệnh cho con được giải thoát khỏi số kiếp gian khổ này. Xin để con ra đi vào cõi đời đời. Lạy Chúa, xin đừng ngoảnh mặt không nhìn con. Quả thật, đối với con, thà chết còn hơn là suốt đời phải nhìn thấy bao nhiêu gian khổ, và phải nghe những lời nhục mạ.”

1.2/ Trường hợp của cô Sarah: Có hai lý do làm cô u sầu: thứ nhất, cô đã 7 lần lấy chồng, nhưng người chồng nào cũng chết yểu bởi quỉ Asmodeus; thứ hai, cô bị đầy tớ châm biếm là “đồ sát phu!” và nguyền rủa cho cô cũng bị chết theo những người chồng đó. Vì không có niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau, nên cô định lên lầu thắt cổ tự tử; nhưng cô nghĩ đến người cha sẽ phải chịu đau khổ: Người ta sẽ nhục mạ cha cô và châm biếm: “Ông chỉ có một cô con gái yêu quý, thế mà vì bạc phận, cô đã thắt cổ tự tử! Như vậy, tôi sẽ làm cho tuổi già của cha tôi phải buồn phiền đi xuống âm phủ. Nên tốt hơn là tôi đừng thắt cổ tự tử, mà phải cầu xin Chúa cho tôi chết đi, để đời tôi không còn phải nghe những lời nhục mạ nữa.” Nghĩ như thế, cô dang hai tay về phía cửa sổ, cầu nguyện rằng: “Chúc tụng Chúa, lạy Thiên Chúa từ nhân! Chúc tụng danh Chúa đến muôn đời, và mọi công trình của Chúa phải chúc tụng Ngài muôn muôn thuở.”

            Sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: “Ngay lúc ấy, lời cầu xin của hai người là Tobit và Sarah đã được đoái nghe trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa.”

2/ Phúc Âm: Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.

2.1/ Bẫy giăng của những người Sadducees: Đây là những người thuộc nhóm thống trị và giàu có của Do-thái. Chức Thượng-tế thường đến từ nhóm người này. Khác với Pharisees là những người tin cả vào luật bất thành văn và truyền thống, họ chỉ tin vào luật thành văn, và chú trọng ưu tiên cho Bộ Ngũ Thư. Họ không tin có sự sống lại, thiên thần, và các thần khí. Trong trình thuật hôm nay, họ muốn dùng Lề Luật của Moses để chứng minh không có sự sống lại. Theo Sách Đệ Nhị Luật 25:5-6, “Khi có những anh em ở chung với nhau, và một trong những người đó chết mà không có con trai, thì vợ của người chết không được lấy một người xa lạ, ngoài gia đình; một người anh em chồng sẽ đến với nàng, lấy nàng làm vợ và chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với nàng. Đứa con đầu lòng nàng sinh ra sẽ duy trì tên của người anh em đã chết; như vậy tên của người chết sẽ không bị xoá khỏi Israel.”

            Dựa trên khoản luật này, họ nghĩ ra một trường hợp không thực tế cho lắm để thử Chúa. Họ hỏi Người: “Thưa Thầy, ông Moses có viết cho chúng ta rằng: “Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ mà không để lại con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.” Vậy có bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không để lại một đứa con nối dòng. Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết mà không để lại một đứa con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy. Cả bảy người đều không để lại một đứa con nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng chết. Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ? Vì bảy người đó đã lấy bà làm vợ.”

           

2.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu: gồm 2 phần chính:

            (1) Thân xác phục sinh khác với thân xác trần thế: Thân xác phục sinh sẽ không bị chi phối bởi các định luật vật lý mà con người đang chịu bây giờ; vì thế, “khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.” Sách Enoch cũng đã từng nói: “Các anh sẽ có nguồn vui vĩ đại như các thiên thần trên trời.” Sách Khải Huyền của Baruch cũng nói: “người công chính sẽ được tạo thành như thiên thần trên trời.”

            (2) Chúa Giêsu dùng chính những gì người Sadducees tin để chứng minh có sự sống lại: Trong Sách Xuất Hành 3:6, nói về thị kiến từ bụi gai của Moses, mà Chúa Giêsu trưng dẫn hôm nay, Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Moses: “Ta là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Jacob.” Chúa Giêsu thêm: “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.” Điều này chứng tỏ các Tổ-phụ, Abraham, Isaac, và Jacob, đang sống; vì thế, những người Pharisees đã lầm to khi không tin có sự sống lại.

           

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

            – Chúng ta cần cố gắng tìm hiểu cho biết thấu đáo mọi sự để niềm tin của chúng ta được vững chắc. Một sự hiểu biết lờ mờ sẽ dẫn chúng ta đến chỗ khủng hoảng đức tin, và sống phất phơ như liễu trước gió.

            – Chúng ta biết chắc Thiên Chúa sẽ công bằng phán xét và trả cho mỗi người tùy theo công phúc và tội họ đã làm khi còn sống ở đời này. Bổn phận của chúng ta là cố gắng chu toàn thánh ý Chúa và sống ngay thật mọi ngày trong cuộc đời.

            – Niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau là chân lý căn bản của đức tin Kitô Giáo. Niềm tin này đã từng được mặc khải cách tiềm ẩn trong Cựu Ước, nhưng đã được mặc khải cách minh bạch và rõ ràng bởi Chúa Giêsu và sự phục sinh vinh hiển của Ngài.

Skip to content