Xin Nhấn vào đây để nghe Bài Giảng hoặc tải xuống
Thứ Năm – Tuần 16 – TN2 – Năm Chẵn
Bài đọc: Jer 2:1-3, 7-8, 12-13; Mt 13:10-17
1/ Bài đọc I: 1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi:
2 Hãy đi mà thét vào tai Giê-ru-sa-lem như sau:
ĐỨC CHÚA phán thế này:
Ta nhớ lại lòng trung nghĩa của ngươi lúc ngươi còn trẻ,
tình yêu của ngươi khi ngươi mới thành hôn,
lúc ngươi theo Ta trong sa mạc,
trên vùng đất chẳng ai gieo trồng.
3 Bấy giờ Ít-ra-en là của thánh thuộc về ĐỨC CHÚA,
là phần hoa lợi đầu mùa của Người;
tất cả những ai ăn lạm vào đó đều phạm lỗi,
chúng phải mang tai mắc hoạ, – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
7 Ta đã đưa các ngươi vào miền đất xanh tươi
để các ngươi được ăn hoa trái thổ sản của nó.
Nhưng một khi vào rồi, các ngươi đã làm nhơ nhớp đất của Ta,
và biến gia sản của Ta thành đồ ghê tởm.
8 Hàng tư tế cũng chẳng thèm hỏi: “ĐỨC CHÚA ở đâu?
Các chuyên viên Lề Luật chẳng biết đến Ta,
các mục tử thì chống lại Ta,
còn ngôn sứ lại nhờ Ba-an mà tuyên sấm,
chúng đi theo những thần vô tích sự.
12 Này trời, hãy kinh khiếp về chuyện đó,
hãy run sợ cho hồn xiêu phách lạc, -sấm ngôn của ĐỨC CHÚA,
13 vì dân Ta đã phạm hai tội:
chúng đã bỏ Ta là mạch nước trường sinh
để làm những hồ nứt rạn, không giữ được nước.
2/ Phúc Âm: 10 Các môn đệ đến gần hỏi Đức Giê-su rằng: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ? “
11 Người đáp: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không.
12 Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất.
13 Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu.
14 Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy;
15 vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành.
16 “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe.
17 Quả thế, Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nếu những nhà lãnh đạo không nói và làm chứng cho Thiên Chúa, nhân loại sẽ quên Ngài.
Có một câu truyện kể khi Chúa Giêsu khải hoàn trở về trời, sứ thần Gabriel ra đón Chúa Giêsu và hỏi: “Loài người có nhận biết những gì Ngài làm cho họ không?” Chúa Giêsu trả lời: “Các môn đệ của tôi sẽ nói cho họ biết.” Sứ thần hỏi tiếp: “Điều gì sẽ xảy ra nếu họ quên không rao giảng?” Chúa Giêsu trả lời: “Tôi tin là các môn đệ của tôi sẽ không làm chuyện đó.”
Bổn phận quan trọng nhất của các người lãnh đạo và các ngôn sứ là nói về Chúa và làm mọi cách cho dân nhận biết Chúa; nhưng trong thực tế, nhiều người lãnh đạo đã lãng quên bổn phận quan trọng này. Thay vào đó, họ chạy theo những bụt thần và dạy cho dân làm theo như vậy. Nhiều nhà lãnh đạo trong xã hội chúng ta đang cố gắng loại trừ Thiên Chúa ra khỏi thế giới: Họ cấm đọc kinh hay thinh lặng nhớ đến Chúa trước giờ học; họ muốn cất đi bảng 10 điều răn trong các tòa án …
Các bài đọc hôm nay muốn nhắc nhở cho mọi người bổn phận làm ngôn sứ của Thiên Chúa. Trong bài đọc I, Thiên Chúa kết tội hàng lãnh đạo của Israel vì họ đã không làm tròn bổn phận dạy dỗ dân. Trong Phúc Âm, khi các môn đệ hỏi Chúa Giêsu lý do Ngài dùng dụ ngôn mà nói chuyện với dân chúng, Chúa Giêsu trả lời: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Những người lãnh đạo của Jerusalem đã không chu toàn bổn phận của mình.
1.1/ Hãy đi mà thét vào tai Jerusalem: Dân chúng rất mau quên; vì thế, họ cần được các nhà lãnh đạo tinh thần nhắc đi nhắc lại tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho họ. Nếu không, chỉ cần qua một thế hệ là những thế hệ đi sau sẽ không còn biết gì đến Thiên Chúa nữa. Các ngôn sứ của Thiên Chúa không ngừng nhắc nhở cho dân chúng về tình thương của Thiên Chúa, được biểu lộ qua biến cố Xuất Hành, 40 năm trong sa mạc, và đưa vào Đất Hứa.
Trong trình thuật hôm nay, chúng ta có thể nghe một sứ điệp tương tự. Đức Chúa phán với Jeremiah: “Hãy đi mà thét vào tai Jerusalem như sau: Đức Chúa phán thế này: Ta nhớ lại lòng trung nghĩa của ngươi lúc ngươi còn trẻ, tình yêu của ngươi khi ngươi mới thành hôn, lúc ngươi theo Ta trong sa mạc, trên vùng đất chẳng ai gieo trồng. Bấy giờ Israel là của thánh thuộc về Đức Chúa, là phần hoa lợi đầu mùa của Người; tất cả những ai ăn lạm vào đó đều phạm lỗi, chúng phải mang tai mắc hoạ” – sấm ngôn của Đức Chúa. Ta đã đưa các ngươi vào miền đất xanh tươi để các ngươi được ăn hoa trái thổ sản của nó.” Mục đích của các ngôn sứ khi nhắc lại những lời này là muốn dân chúng kiểm điểm lại nếp sống hiện tại của họ, và quay trở về với tình thương trung thành của Thiên Chúa. Jeremiah viết: “Nhưng một khi vào rồi (Đất Hứa), các ngươi đã làm nhơ nhớp đất của Ta, và biến gia sản của Ta thành đồ ghê tởm.”
1.2/ Các nhà lãnh đạo không còn biết đến Thiên Chúa: Con cái Israel được lãnh đạo bởi 4 thành phần chính sau khi lập nghiệp trong Đất Hứa. (1) Thoạt đầu họ không có vua, vì Thiên Chúa chính là vua của họ; nhưng dần dần dân chúng đòi các ngôn sứ phải đặt một vị làm vua cai trị họ. Ngôn sứ Samuel, sau khi tham khảo ý Thiên Chúa đã đặt Saul làm vua đầu tiên cai trị Israel. Trong trình thuật hôm nay, Jeremiah có lẽ gọi vua là các mục tử. Họ chống lại Thiên Chúa bằng cách thiết lập các bàn thờ cho thần ngoại, và bắt dân chúng thờ lạy.
(2) Hàng tư tế: Họ chuyên lo việc thờ phượng trong Đền Thờ Jerusalem. Khi vua Jeroboam đúc hai con bê bằng vàng cho dân chúng thờ, ông cũng thiết lập hàng tư tế riêng để lo việc thờ phượng, mà không cần theo dòng tộc Levi. Hàng tư tế, trong trình thuật hôm nay, cũng chẳng thèm hỏi: “Đức Chúa ở đâu?”
(3) Các kinh sư: là những người chuyên học hỏi Lề Luật và dạy dỗ cho dân chúng. Nhưng dần dần, họ cũng chẳng còn biết Luật để dạy cho dân chúng tuân theo.
(4) Các ngôn sứ: là những người nói thay cho Thiên Chúa. Nhưng cũng có các tiên tri giả xuất hiện. Họ không nói những gì Thiên Chúa truyền, nhưng “lại nhờ Baal mà tuyên sấm, chúng đi theo những thần vô tích sự.”
Tất cả các nhà lãnh đạo này đã hoàn toàn gạt Chúa ra ngoài cuộc sống, và đi theo những lợi lộc vật chất. Họ đã bỏ quên Chúa là nguồn nước hằng sống; để thay bằng những giếng không giữ được nước. Vì thế, họ sẽ kinh hoàng khi nhìn thấy hậu quả của những hành động này; tất cả những gì họ chạy theo sẽ hoàn toàn bị hủy hoại.
2/ Phúc Âm: Những câu hỏi khó trả lời
(1) Tại sao dùng dụ ngôn? Trước hết chúng ta cần biết chút ít về dụ ngôn: Dụ ngôn là những câu truyện dùng những hình ảnh bình dân và quen thuộc để diễn tả những thực tại về luân lý. Chúng là những ví dụ đưa ra để giúp làm sáng tỏ những gì đã đề cập tới. Vì thế, dụ ngôn không cần thiết nếu khán giả đã hiểu những gì mà tác giả muốn nói. Dụ ngôn thích hợp với khán giả bình dân để người nói có thể dẫn khán giả từ cái họ đã hiểu đến cái họ chưa hiểu, từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, từ cái thấy được trong hiện tại đến cái sẽ tới trong tương lai.
Chúa trả lời cho các môn đệ: phần các con đã được ban cho để thấu hiểu các mầu nhiệm Nước Trời, nhưng họ thì chưa được. Để hiểu các mầu nhiệm Nước Trời, các tông đồ đã được Chúa hướng dẫn từ các kiến thức căn bản trước khi có thể đi xa hơn để hiểu các kiến thức cao sâu hơn.
(2) Tại sao người có lại cho thêm? Người không có sẽ bị tước đi những gì họ đang có? Thoạt nghe qua có vẻ như là Chúa bất công, nhưng điều này rất đúng trong lãnh vực tri thức: những ai đã có kiến thức căn bản, họ sẽ dùng những kiến thức này để càng ngày càng hiểu biết những kiến thức khác nhiều hơn; những ai chưa đạt được những kiến thức căn bản họ không thể tiến xa hơn. Những ai đã có kiến thức căn bản mà không dùng tới thì lâu ngày sẽ mất đi. Điều này rất đúng cho việc học ngoại ngữ. Có những người mặc dù đã học tiếng Spanish ở trung học, nhưng nếu họ không dùng tới, những chữ đã biết rồi cũng mất đi; nhưng nếu có cơ hội dùng tới thì càng ngày sẽ càng biết nhiều hơn.
(3) Tại sao Chúa làm cho mắt chúng mù, tai chúng điếc, và tim chúng ra chai đá? Nếu Thiên Chúa làm như thế, họ còn trách nhiệm cho tội cứng lòng không?
Trước tiên, chúng ta cần biết đây chỉ là một lối nói của người Do Thái vì họ đã quá quen trong việc tin tưởng mọi sự xảy ra trong thế giới là do bởi Thiên Chúa. Tuy nhiên, họ không tin Chúa là tác giả làm cho con người phạm tội, vì con người có đầy đủ ý thức và tự do để làm những gì họ muốn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Để tin Chúa cần phải biết về Ngài, nhưng làm sao biết nếu không có người rao giảng về Chúa? Nếu cha mẹ và những người dạy dỗ đức tin không chu toàn bổn phận quan trọng này thì làm sao thế hệ mai sau biết Chúa và tin vào Ngài?