Chủ Nhật II Thường Niên, Năm B
Bài đọc: I Sam 3:3-10, 19; I Cor 6:13-15, 17-20; Jn 1:35-42.
1/ Bài đọc I: 3 Đèn của Thiên Chúa chưa tắt và Sa-mu-en đang ngủ trong đền thờ ĐỨC CHÚA, nơi có đặt Hòm Bia Thiên Chúa. 4 ĐỨC CHÚA gọi Sa-mu-en. Cậu thưa: “Dạ, con đây! “
5 Rồi chạy lại với ông Ê-li và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Ông bảo: “Thầy không gọi con đâu. Con về ngủ đi.” Cậu bèn đi ngủ.
6 ĐỨC CHÚA lại gọi Sa-mu-en lần nữa. Sa-mu-en dậy, đến với ông Ê-li và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Ông bảo: “Thầy không gọi con đâu, con ạ. Con về ngủ đi.”
7 Bấy giờ Sa-mu-en chưa biết ĐỨC CHÚA, và lời ĐỨC CHÚA chưa được mặc khải cho cậu.
8 ĐỨC CHÚA lại gọi Sa-mu-en lần thứ ba. Cậu dậy, đến với ông Ê-li và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Bấy giờ ông Ê-li hiểu là ĐỨC CHÚA gọi cậu bé.
9 Ông Ê-li nói với Sa-mu-en: “Con về ngủ đi, và hễ có ai gọi con thì con thưa: “Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” Sa-mu-en về ngủ ở chỗ của mình.
10 ĐỨC CHÚA đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Sa-mu-en! Sa-mu-en! ” Sa-mu-en thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.”
19 Samuen lớn lên. Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu.
2/ Bài đọc II: 13 Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác. 14 Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại.
15 Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Ki-tô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào!
17 Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người.
18 Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình.
19 Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, 20 vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.
3/ Phúc Âm: 35 Hôm sau, ông Gio-an lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. 36 Thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa.” 37 Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. 38 Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế? ” Họ đáp: “Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu? ” 39 Người bảo họ: “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. 40 Ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, là một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giê-su. 41 Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-môn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). 42 Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn ông Si-môn và nói: “Anh là Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô).
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nghe và nhìn để tìm ra ý định của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có thể mặc khải trực tiếp cho một người hay qua trung gian của người khác. Để nhận ra ý định của Thiên Chúa, nhiều khi con người cần cả ba: Thiên Chúa, người trung gian, và chính đương sự. Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy những trường hợp con người có thể nhận ra ý định của Thiên Chúa.
Trong Bài đọc I, Thiên Chúa gọi con trẻ Samuel 3 lần giữa đêm tối trong Đền Thờ, và Samuel đã nhận ra tiếng của Thiên Chúa qua sự giúp đỡ của Thầy Cả Eli. Trong Bài Đọc II, qua sự dạy dỗ của Thánh Phaolô, chúng ta nhận ra phẩm giá của thân xác và phải biết quí trọng nó, vì thân xác chúng ta là một phần chi thể của Đức Kitô, và là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả chỉ đường cho hai môn đệ thân tín của mình theo Chúa Giêsu. Anrê, sau khi đã gặp được Chúa, dẫn em mình là Phêrô đến gặp Chúa Giêsu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Con trẻ Samuel được Thầy Cả Êli hướng dẫn để nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa.
Cuộc đời con trẻ Samuel đặc biệt từ khi chưa ra đời. Mẹ của Samuel là Bà Hanna, Bà son sẻ và chịu sự khinh bỉ của người đời vì không có con một thời gian lâu dài. Bà khấn hứa với Thiên Chúa: nếu Ngài ban cho Bà một đứa con, Bà sẽ dâng con trẻ lại cho Thiên Chúa để nó phục vụ trong Đền Thờ luôn. Thiên Chúa đã nhận lời cầu xin của Bà và cho Bà có con trai. Tên Bà đặt cho con trẻ, Samuel, có nghĩa là “quà tặng của Thiên Chúa.” Giữ lời đã hứa với Thiên Chúa, khi con trẻ dứt sữa, Bà mang con và lễ vật hy sinh đến dâng cho Thầy Cả Êli trong Đền Thờ Thiên Chúa tại
(1) Thiên Chúa gọi Samuel ba lần: Trình thuật kể: “Đèn của Thiên Chúa chưa tắt và Samuel đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi có đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Đức Chúa gọi Samuel. Cậu thưa: “Dạ, con đây!” Rồi chạy lại với ông Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Ông bảo: “Thầy không gọi con đâu. Con về ngủ đi.” Cậu bèn đi ngủ. Đức Chúa lại gọi Samuel lần nữa. Samuel dậy, đến với ông Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Ông bảo: “Thầy không gọi con đâu, con ạ. Con về ngủ đi.” Bấy giờ Samuel chưa biết Đức Chúa, và lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu. Đức Chúa lại gọi Samuel lần thứ ba. Cậu dậy, đến với ông Êli và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Thiên Chúa gọi con người nhiều lần, nhưng con người có biết lắng nghe để nhận ra tiếng Chúa gọi hay không là chuyện khác. Sự ồn ào của thế gian và sự mải mê chạy theo những tiếng gọi khác là những lý do ngăn cản không cho con người nhận ra tiếng Chúa gọi.
(2) Thầy Cả Êli giúp Samuel nhận ra và đáp lại tiếng Chúa: Bấy giờ ông Êli hiểu là Đức Chúa gọi cậu bé. Ông Êli nói với Samuel: “Con về ngủ đi, và hễ có ai gọi con thì con thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.”
(3) Samuel đáp trả tiếng Chúa gọi: Được sự hướng dẫn của Thầy, nên khi nghe Thiên Chúa gọi lần thứ ba, Samuel mau mắn thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” Kể từ khi nhận ra tiếng Chúa, Samuel tiếp tục đàm đạo với Chúa nhiều lần. Samuel lớn lên, Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu.
Mấy điều chúng ta có thể học nơi con trẻ Samuel: (1) Đền Thờ là nơi dễ nhận ra tiếng Thiên Chúa gọi, vì là nơi tĩnh mịch và xa cách những ồn ào của thế gian. Samuel phục vụ nơi Thánh Điện và ngủ trong Đền Thờ tại
2/ Bài đọc II: Thân xác con người quan trọng và cần thiết để làm việc cho Thiên Chúa.
Chúng ta biết hầu hết các Thư viết bởi Phaolô là để trả lời cho những vấn nạn đang xảy ra trong những cộng đòan do Ngài thiết lập. Vấn nạn hôm nay là việc gian dâm, mà có một số người trong cộng đòan Côrintô không cho là tội. Theo một số các triết gia Hy-Lạp, thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn. Vì thế, có 2 lối sống là hệ quả của quan niệm này: (1) khổ chế: hành hạ thân xác bằng ăn chay nghiệm nhặt và đánh đập thân xác để chế ngự nó; và (2) buông thả: vì thân xác không quan trọng trong việc giải thóat con người, nên cứ việc tự do hưởng thụ khóai lạc. Thánh Phaolô phải đương đầu với lối sống thứ hai này; ngài khuyên các tín hữu Corintô phải tránh xa tội gian dâm vì 2 phẩm giá của thân xác.
2.1/ Thân xác anh em là một phần thân thể của Đức Kitô: Thần học về thân thể Đức Kitô là một trong những chủ đề chính của Thư Phaolô. Theo thần học này, các Kitô hữu là những chi thể của thân thể Đức Kitô; vì thế, tất cả các tín hữu đều có bổn phận phải bảo vệ thân thể cho nguyên vẹn, vì một chi thể đau là tòan thân đều cảm thấy đau lây. Dựa vào nguyên lý này, Phaolô kết luận, thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa. Ngài hướng dẫn họ:
– Thân xác con người sẽ bị hủy diệt: “Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác.”
– Thân xác con người sẽ được Thiên Chúa cho sống lại: “Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại. Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Kitô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào! Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người.” Chuyện kết hợp với ai là nên một thân xác với người ấy; điều này chỉ cho phép trong liên hệ vợ chồng. Khi chuyện này xảy ra ngòai liên hệ vợ chồng, kẻ làm chuyện ấy tự tách mình ra khỏi thân thể của Đức Kitô, vì tội lỗi không thể ở chung với sự thánh thiện trong thân thể của Chúa.
2.2/ Thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần: “Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.” Qua Bí-tích Rửa Tội và Thêm Sức, các tín hữu đã có Chúa Thánh Thần qua việc xức dầu; và Chúa Thánh Thần là Đấng rất mực thánh thiện vì Ngài là Thiên Chúa. Con người chúng ta không thể sống cho chính chúng ta nữa, vì chúng ta đã được Thiên Chúa cứu chuộc qua cái chết của Đức Kitô. Do đó, chúng ta phải sống cho Thiên Chúa và làm vinh quang Ngài qua thân xác chúng ta.
3/ Phúc Âm: Người bảo họ: “Đến mà xem!”
3.1/ Gioan giới thiệu Đức Kitô cho 2 môn đệ của ông: “Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa.” Khi một người giới thiệu môn đệ của mình với một Thầy hay hơn mình là chấp nhận mất môn đệ. Gioan không giữ môn đệ cho mình, ông chỉ cho hai môn đệ đi theo Thầy tốt hơn; vì ông quan tâm đến lợi ích cho môn đệ chứ không giữ lợi ích cho mình. Mấy ai trong chúng ta có được thái độ như của Gioan? Chúng ta đã đề cập đến nguồn gốc lịch sử của câu “Đây là Chiên Thiên Chúa.” Chúa Giêsu chính là Con Chiên, lễ vật hy sinh để đền tội cho con người.
3.2/ Phản ứng của hai môn đệ: Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. Hai môn đệ của Gioan có lẽ ngượng ngùng không biết mở lời làm sao, nên cứ tiếp tục theo đàng sau Chúa Giêsu. Để dễ dàng cho họ phản ứng, Chúa Giêsu mở lời trước: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Rabbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?”
– Chúng ta có thể nhận ra cả 3 yếu tố quan trọng đều có ở đây: (1) Gioan, người trung gian chỉ đường cho hai ông đến với Chúa; (2) chính hai ông phải vượt qua xấu hổ, ngượng ngùng để đi theo Ngài; và (3), Chúa Giêsu mở lời trước để đánh tan ngượng ngùng lúc ban đầu, và mời gọi hai ông đến và xem.
– Câu hỏi Chúa đặt cho hai ông: “Các anh tìm gì thế?” là câu hỏi nền tảng nhất trong đời sống con người. Câu trả lời cho câu hỏi này sẽ giúp chúng ta nhận ra tại sao chúng ta đi tìm hay không đi tìm Thiên Chúa. Nếu câu trả lời là đi tìm của cải, danh vọng, chức quyền; chúng ta đừng đến với Chúa, vì Ngài sẽ không thỏa mãn khát vọng của ta. Nếu câu trả lời như của người thanh niên trẻ: “Tôi phải làm gì để đạt được cuộc sống đời đời?” Hảy đến với Chúa, Ngài sẽ giúp chúng ta tìm ra câu trả lời.
3.3/ Lời mời gọi của Đức Kitô: Người bảo họ: “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười.
– Người khác có thể nói về Chúa cho chúng ta nghe, hay giới thiệu chúng ta đến với Chúa; nhưng để nhận ra Chúa là ai, chúng ta cần kinh nghiệm của cá nhân chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta có được kinh nghiệm cá nhân biết Chúa, lúc đó Chúa mới thực sự thuyết phục chúng ta.
– Các môn đệ đáp trả lời mời của Chúa Giêsu; họ đến và ở với Ngài suốt ngày hôm đó. Giờ thứ mười của Do-Thái là khỏang 4 giờ chiều của chúng ta.
3.4/ Người nhận ra tiếng gọi theo Chúa trở thành người mời gọi: “Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messiah” (nghĩa là Đấng Kitô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (tức là Phêrô).”
– Yêu ai thực sự là muốn điều tốt nhất cho người ấy. Anrê đã gặp Đấng Thiên Sai, và đây là Tin Mừng quan trọng nhất cho những người Do-Thái. Thương em, Anrê dắt em mình tới giới thiệu với Đức Kitô.
– Phản ứng của Chúa Giêsu khi gặp Phêrô: Vừa gặp lần đầu, Chúa Giêsu đã biết rõ con người Phêrô là ai, và Ngài đã có sẵn cho ông một sứ vụ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta cần lắng nghe và nhìn xem để nhận ra thánh ý của Thiên Chúa.
– Chúng ta cần cả ba: tiếng Thiên Chúa gọi, người trung gian, và chính bản thân để nhận ra thánh ý của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không cố gắng, chúng ta sẽ không bao giờ nhận ra thánh ý của Thiên Chúa.
– Một khi đã nhận ra thánh ý của Thiên Chúa, chúng ta có bổn phận phải thi hành những gì Thiên Chúa dạy.
– Ngòai ra, chúng ta còn phải hướng dẫn và đưa mọi người đến với Thiên Chúa.