Thứ Tư Tuần III MV1

Xin Nhấn vào đây để nghe Bài Giảng hoặc tải xuống

 

Thứ Tư Tuần III MV

 

Bài đọc: Isa 45:6b-8, 18, 21b-25; Lk 7:18b-23.

 

1/ Bài đọc I: Ta là ĐỨC CHÚA, không còn chúa nào khác. 7 Ta tạo ra ánh sáng và dựng nên tối tăm, làm ra bình an và dựng nên tai hoạ. Ta là ĐỨC CHÚA, Ta làm nên tất cả.

8 Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính;
đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ vươn lên.
Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã làm điều ấy.

18 Đây là lời của ĐỨC CHÚA, Đấng tạo dựng trời cao
– chính Người là Thiên Chúa nặn quả đất thành hình, củng cố cho bền vững;
Người dựng nên quả đất mà không để hoang vu, nặn ra nó cho muôn loài cư ngụ -,
Người phán thế này: Ta là ĐỨC CHÚA, chẳng còn chúa nào khác.

Há chẳng phải Ta, chẳng phải ĐỨC CHÚA? Ngoài Ta ra, không có thần nào nữa,
chẳng có thần công minh cứu độ, ngoại trừ Ta.

22 Nào muôn dân khắp cõi địa cầu, hãy hướng về Ta, thì các ngươi sẽ được cứu độ,
vì Ta là Thiên Chúa, chẳng còn chúa nào khác.

23 Ta lấy chính danh Ta mà thề, lời chân thật này thốt ra khỏi miệng Ta,
Ta quyết chẳng bao giờ rút lại: Trước mặt Ta, mọi người sẽ quỳ gối, và mở miệng thề rằng:

24 Chỉ mình ĐỨC CHÚA mới cứu độ và làm cho mạnh sức.
Hết thảy những ai giận ghét Người sẽ phải đến với Người và thẹn thùng xấu hổ.

25 Còn tất cả giống nòi Ít-ra-en sẽ nhờ ĐỨC CHÚA mà vẻ vang toàn thắng.

 

2/ Phúc Âm: Ông Gio-an liền gọi hai người trong nhóm môn đệ lại,

19 sai họ đến hỏi Chúa rằng: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”

20 Khi đến gặp Đức Giê-su, hai người ấy nói: “Ông Gio-an Tẩy Giả sai chúng tôi đến hỏi Thầy: “Thầy có thật là “Đấng phải đến” không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”

21 Chính giờ ấy, Đức Giê-su chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy.

22 Người trả lời hai người ấy rằng: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng,

23 và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”


 

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi.

 

Con người có thể lỗi phạm đến Thiên Chúa cả khi sung sướng hạnh phúc lẫn khi đau khổ buồn sầu. Con người quên Thiên Chúa trong lúc được sung sướng hạnh phúc, vì họ cho đó là công sức của họ hay một thần nào khác. Con người từ chối Thiên Chúa khi phải đương đầu với nghịch cảnh và đau khổ, vì họ đặt câu hỏi nếu Thiên Chúa có uy quyền thay đổi và yêu thương rất mực, tại sao Ngài lại để những đau khổ xảy ra cho con người, nhất là những người “vô tội?” Vì thế, họ kết luận hoặc Thiên Chúa không uy quyền hoặc Thiên Chúa không yêu thương, nên họ từ chối tin vào Ngài!

Các Bài Đọc hôm nay xác tín chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và Ngài quan phòng mọi sự trong trời đất này. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah quả quyết chỉ có một Thiên Chúa, Ngài tạo dựng mọi sự trong vũ trụ, quan phòng mọi chuyện xảy ra: tốt cũng như xấu, và có quyền giải thoát và ban ơn cứu độ cho những ai vững tin vào Ngài. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả sai hai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Chúa Giêsu trả lời hai người ấy rằng: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”

 

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

 

1/ Bài đọc I: Ta là Đức Chúa, ngoài Ta ra, không có thần nào nữa.

 

1.1/ Thiên Chúa duy nhất: Khi nói đến uy quyền của Thiên Chúa, truyền thống Do-thái cũng như Giáo Hội thường đề cập đến ba hoạt động chính của Ngài: tạo dựng, quan phòng, và cứu độ. Trình thuật của Isaiah hôm nay dẫn chứng ba điều này như sau:

(1) Ngài tạo dựng nên mọi sự trong vũ trụ: Tiên-tri Isaiah loan báo: “Đây là lời của Đức Chúa, Đấng tạo dựng trời cao – chính Người là Thiên Chúa nặn quả đất thành hình, củng cố cho bền vững; Người dựng nên quả đất mà không để hoang vu, nặn ra nó cho muôn loài cư ngụ.”

(2) Ngài quan phòng mọi sự xảy ra trong trời đất: “Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác. Ta tạo ra ánh sáng và dựng nên tối tăm, làm ra bình an và dựng nên tai hoạ. Ta là Đức Chúa, Ta làm nên tất cả.” Theo giáo huấn của Giáo Hội, Thiên Chúa, trong sự quan phòng trời đất, dựng nên cả ánh sáng và tối tăm, những tai họa của trời đất như: núi lửa, động đất, mưa bão… nhưng tội lỗi luân lý là hoàn toàn do con người, vì Ngài đã cho con người được tự do chọn lựa.

(3) Ngài ban ơn cứu độ cho con người: Thiên Chúa có quyền dạy dỗ con người bằng cách để những tai nạn xảy ra cho họ, như bệnh tật, đau khổ, tù đày; nhưng nếu con người biết ăn năn xám hối, chỉ một mình Ngài có uy quyền giải thoát con người. Trong lịch sử, Ngài giải thoát họ bằng cách sai Moses và Aaron đưa dân ra khỏi đất nô lệ Ai-cập; hay dùng Cyrus, vua Ba-tư để phóng thích cho dân hồi hương để xây dựng lại Đền Thờ và quê hương; hay gởi Đấng Thiên Sai tới để chuộc tội cho dân, như lời tiên-tri Isaiah loan báo: “Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính; đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ vươn lên. Ta là Đức Chúa, Ta đã làm điều ấy.”

 

1.2/ Thái độ của con người trước Thiên Chúa: Trước tiên, con người cần xác tín: những gì Thiên Chúa đã hứa, Ngài không bao giờ rút lại. Tiên-tri Isaiah dẫn chứng điều này qua sấm ngôn của Đức Chúa: “Ta lấy chính danh Ta mà thề, lời chân thật này thốt ra khỏi miệng Ta, Ta quyết chẳng bao giờ rút lại: Trước mặt Ta, mọi người sẽ quỳ gối, và mở miệng thề rằng: Chỉ mình Đức Chúa mới cứu độ và làm cho mạnh sức.”

Để được Thiên Chúa cứu độ, con người cần qui hướng và đặt trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa: Nếu con người cậy dựa vào Thiên Chúa, họ sẽ chiến thắng vẻ vang; nhưng nếu con người cậy dựa vào sức mình hay nơi các thần khác, Ngài sẽ để mặc họ cho các sức mạnh của ma quỉ và của thế gian hành hạ họ, và họ sẽ phải nhục nhã và thẹn thùng xấu hổ.

 

2/ Phúc Âm: Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.

 

2.1/ Câu hỏi của Gioan Tẩy Giả: Có nhiều giả thuyết khác nhau chung quanh câu hỏi của hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”

(1) Ông nghi ngờ Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai: Truyền thống Do-thái tin một Đấng Thiên Sai uy quyền, khi Ngài tới, Ngài sẽ dùng uy quyền và sức mạnh để đanh đuổi ngoại bang và phục hồi địa vị ưu việt cho người Do-thái. Khi không thấy điều này xảy ra, niềm tin của ông vào Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai bị lung lay.

(2) Tuy Gioan tin Chúa Giêsu, nhưng ông muốn hai môn đệ của ông tự tìm ra và củng cố niềm tin của họ bằng cách gởi họ trực tiếp tìm câu trả lời từ miệng Chúa Giêsu. Một người có thể nghe người khác nói về Chúa Giêsu hay đọc những sách nói về Ngài; nhưng để có niềm tin vững mạnh vào Ngài, họ cần có kinh nghiệm trực tiếp với Chúa Giêsu.

(3) Gioan đang bị giam giữ khốn khổ trong ngục thất, và sự giam giữ này làm lung lay đức tin của Gioan. Tại sao Chúa Giêsu không dùng uy quyền ra tay giải thoát hay sai các thiên sứ của Ngài đến để cứu ông thoát khỏi cảnh tù tội?

Cả ba giả thuyết đều có lý do, vì dựa trên câu trả lời của Chúa Giêsu cho hai môn đệ.

 

2.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu: Thánh sử Lucas chú trọng đến ba điều quan trọng trong câu trả lời của Chúa Giêsu:

(1) Chúa Giêsu có uy quyền chữa bệnh: “Chính giờ ấy, Đức Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy.” Hai môn đệ của Gioan đã chứng kiến tất cả những việc này, và niềm tin của hai ông phải được củng cố bởi những phép lạ của Chúa Giêsu.

(2) Chúa Giêsu củng cố niềm tin cho Gioan: Đau khổ khi bị tù đày cần thiết để thanh luyện và củng cố đức tin cho con người. Trong câu cuối, Ngài gián tiếp nhắn nhủ Gioan và hai môn đệ của ông: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”

(3) Chúa Giêsu nhắc nhở cho Gioan biết Ngài là Đấng mà tiên-tri Isaiah đã loan báo, và Ngài làm cho lời tiên-tri Isaiah được ứng nghiệm: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng.”

 

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa phải được củng cố và làm cho lớn mạnh mỗi ngày, để có thể giúp chúng ta đứng vững trước phong ba của cuộc đời. Nếu không, chúng ta sẽ dễ dàng bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần khác.

– Khi phải đương đầu với nghịch cảnh, thay vì trách Thiên Chúa, chúng ta hãy tự kiểm điểm xem tại sao những điều ấy xảy ra: có thể là tiếng kêu gọi thức tỉnh để trở về với Thiên Chúa hay có thể là dịp để chúng ta luyện tập đức tin cho vững vàng hơn.

CÁC BÀI VIẾT KHÁC
{loadposition user11}

Skip to content