Xin Nhấn vào đây để nghe Bài Giảng hoặc tải xuống
Thứ Hai Tuần 3 TN2
Bài đọc: Heb 9:15, 24-28; 2 Sam 5:1-7, 10; Mk 3:22-30.
1/ Bài đọc I (năm lẻ): 15 Bởi vậy, Người là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa.
24 Quả thế, Đức Ki-tô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Người đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta.
25 Người vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh.
26 Chẳng vậy, Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình.
27 Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét.
28 Cũng vậy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): 1 Toàn thể các chi tộc Ít-ra-en đến gặp vua Đa-vít tại Khép-rôn và thưa: “Chúng tôi đây là cốt nhục của ngài.
2 Ngay cả trước kia, khi ông Sa-un làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Ít-ra-en. Đức Chúa đã phán với ngài: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Ít-ra-en.”
3 Toàn thể kỳ mục Ít-ra-en đến gặp vua tại Khép-rôn. Vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Khép-rôn, trước nhan Đức Chúa. Rồi họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Ít-ra-en.
4 Vua Đa-vít được ba mươi tuổi khi lên làm vua, và trị vì bốn mươi năm.
5 Tại Khép-rôn, vua trị vì Giu-đa bảy năm sáu tháng. Tại Giê-ru-sa-lem, vua trị vì toàn thể Ít-ra-en và Giu-đa ba mươi ba năm.
6 Vua và người của vua tiến về Giê-ru-sa-lem đánh người Giơ-vút là dân bản xứ. Chúng nói với vua Đa-vít: “Ông sẽ không vào đây được, vì người mù người què sẽ đẩy lui ông.” Nghĩa là: “Ông Đa-vít sẽ không vào đây được.”
7 Vua Đa-vít đã chiếm được đồn luỹ Xi-on, đó là Thành vua Đa-vít.
10 Vua Đa-vít ngày càng mạnh thế, và Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, ở với vua.
3/ Phúc Âm: 22 Còn các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem xuống thì lại nói rằng Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ.
24 Người liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; 25 nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững.
26 Vậy Xa-tan mà chống Xa-tan, Xa-tan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số.
27 Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó. 28 “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. 29 Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời.” 30 Đó là vì họ đã nói “ông ấy bị thần ô uế ám.”
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu đến để tiêu diệt tội lỗi và các việc làm của ma quỉ.
Trong hành trình đi tìm sự thật, con người phải để tâm hồn rộng mở, suy xét cẩn thận, và theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần là nguồn mạch của mọi sự thật. Điều nguy hiểm nhất là đương sự cố tình ngoan cố trong sự sai trái của mình vì kiêu ngạo, lợi nhuận, lười biếng… Những nguyên do này dễ dẫn đưa con người tới việc nói xấu, nói hành, hay tố cáo người công chính.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong những gì Chúa Giêsu làm để tiêu diệt tội lỗi và chuẩn bị cho con người được xứng đáng lãnh nhận Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tác giả Thư Do-Thái so sánh hiệu quả của Giao Ước cũ và mới. Giao Ước cũ không thể cất đi các tội của con người vì máu chiên bò không đủ mạnh để làm chuyện đó. Giao Ước mới có thể tẩy sạch tội của con người vì máu Chúa Giêsu, dù chỉ đổ một lần; và làm cho con người được giao hòa với Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, David thay thế Saul làm vua để bắt đầu một triều đại mới. Triều đại của David là một triều đại huy hoàng nhất của Israel, vì nhà vua thống nhất tất cả 12 chi tộc của con cái Israel, và mở mang bờ cõi đất nước. Trong Phúc Âm, các kinh-sư tố cáo Chúa Giêsu “bị quỷ vương Beezebul ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ.” Chúa Giêsu vạch ra sự sai trá của lời tố cáo này.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Người tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình.
1.1/ Sự khác biệt giữa hai Giao Ước: Tác giả đã nói lý do tại sao Giao Ước mới hoàn hảo hơn Giao Ước cũ; giờ đây ông chỉ lặp lại những gì đã nói: (1) Chúa Giêsu là trung gian của một Giao Ước Mới; (2) Ngài lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ; và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa; (3) Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Người đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta.
1.2/ Chúa Giêsu chỉ hiến tế một lần là đủ: Theo Giao Ước cũ, vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài vật mà vào cung thánh để đền tội cho mình và cho dân. Theo Giao Ước mới, Thượng Tế Giêsu không phải dâng chính mình làm của lễ nhiều lần. Chẳng vậy, Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình.
Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét. Cũng vậy, Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Vua David ngày càng mạnh thế, và Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, ở với vua.
2.1/ David được mọi chi tộc Israel tôn làm vua tại Hebron: Một trong những lý do đe dọa sự hiệp nhất quốc gia là tính kiêu hãnh cá nhân, làng mạc, hay xứ sở. Trong lịch sử Do-thái, nhiều lần sự hiệp nhất bị đe dọa vì lý do này. Ví dụ, ngay sau khi vua Saul băng hà, cuộc chiến giữa hai miền Nam-Bắc đã xảy ra. Sau thời vua Solomon, lãnh thổ bị phân chia làm hai: miền Bắc là vương quốc Israel, đặt thủ đô tại Samaria; và miền Nam là vương quốc Judah, đặt thủ đô tại Jerusalem.
David thuộc chi tộc của miền Nam và thường bị coi nhẹ bởi các chi tộc của miền Bắc. Sự kiện Thiên Chúa chọn David, một chi tộc nhỏ bé của miền Nam, làm vua cai trị Israel, chắc chắn sẽ gây ra ghen tị cho các chi tộc miền Bắc. Nhưng trong trình thuật hôm nay, toàn thể các chi tộc Israel đến gặp vua David tại Hebron và thưa: “Chúng tôi đây là cốt nhục của ngài. Ngay cả trước kia, khi ông Saul làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Israel. Đức Chúa đã phán với ngài: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Israel.””
Khi con người loại bỏ được tất cả lý do đe dọa sự hiệp nhất như: kiêu hãnh, ghen tị, lười biếng, như các kỳ mục của Israel hôm nay; họ nhận ra tất cả đều là đồng bào trong một nước, cùng chung một “cốt nhục.” Điều này dẫn tới sự hiệp nhất để cùng nhau chung sức phát triển, xây dựng và bảo vệ đất nước. Toàn thể kỳ mục Israel và vua David đã lập giao ước với nhau tại Hebron, trước nhan Đức Chúa. Rồi họ xức dầu tấn phong David làm vua Israel. “Vua David được ba mươi tuổi khi lên làm vua, và trị vì bốn mươi năm. Tại Hebron, vua trị vì Judah bảy năm sáu tháng. Tại Jerusalem, vua trị vì toàn thể Israel và Judah ba mươi ba năm.”
2.2/ Vua David chiếm thành Jerusalem và lập kinh đô tại đó: Jerusalem là trung tâm quan trọng, không những về phương diện chính trị mà cả về phương diện tôn giáo. Đền Thờ tương lai sẽ được thiết lập tại đây, và Jerusalem sẽ trở thành nơi qui tụ các dân tộc trên mặt đất.
Jerusalem là một thành nằm trên núi Sion, rất khó để đánh chiếm vì phải leo lên đỉnh núi. Đó là lý do khi nghe tin vua David và người của vua tiến về Jerusalem đánh người Jebusites là dân bản xứ, chúng nói với vua David: “Ông sẽ không vào đây được, vì người mù người què sẽ đẩy lui ông.” Nhưng vua David đã chiếm được đồn luỹ Sion, và thành lập kinh đô tại đó. Jerusalem được mệnh danh là “Thành vua David.” Kể từ đó, thế lực của David càng ngày càng bành trướng; vì Thiên Chúa ở với nhà vua.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu phải có quyền năng mạnh hơn Satan.
Trình thuật hôm nay của Marcô tiếp tục trình thuật “Chúa Giêsu bị thân nhân bắt đem về nhà,” vì họ nghĩ Ngài đã hóa điên. Chúng ta đã nói tới lý do vì Chúa Giêsu đã quá yêu thương con người, nên Ngài dành hết mọi thời gian để dạy dỗ và chữa lành dân chúng; đến nỗi Ngài không còn thời giờ ăn uống. Các kinh-sư trong trình thuật hôm nay đến từ kinh-đô Jerusalem, có lẽ đã được nghe báo cáo từ các kinh-sư địa phương, họ buộc tội Ngài: “Người bị quỷ vương Beelzebul ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ.”
3.1/ Chúa Giêsu trả lời 2 tố cáo của họ:
(1) Bị quỷ vương Beelzebul ám: Beelzebul là Syriac phiên dịch của chữ Do-thái Baalzebub. Trong Phúc Âm Nhất Lãm, từ này được dùng để chỉ tướng quỉ, Satan. Từ này được dùng ở đây và trong Mt 10:25, nhưng không thông dụng bằng từ Satan.
Chúa Giêsu dùng lý luận triệt tam: “một vật không thể vừa có vừa không một lúc;” điều này ám chỉ Satan không thể vừa là quỉ, vừa không là quỉ được. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Satan làm sao trừ Satan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. Vậy Satan mà chống Satan, Satan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số.” Chúa Giêsu không thể bị đồng hóa với Satan, vì Ngài luôn luôn đối chọi chúng. Ngài đến để tiêu diệt chúng và giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi do chúng gây ra.
(2) Dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ: Trong một nước, người có quyền hành nhất là vua, người cai trị dân chúng. Nếu một người nước khác tới bắt nạt dân chúng, người đó phải đương đầu với quyền lực của nhà vua. Chúa Giêsu cũng đưa một ví dụ tương tự: “Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó.” Tương tự, quỉ vương hay Satan, là người lãnh đạo các quỉ. Nếu Chúa Giêsu động đến các quỉ nhỏ là động đến chính Satan. Chúa Giêsu có quyền lực mạnh trên cả Satan, nên Ngài không sợ ngay cả chính Satan, huống hồ gì là các tay sai của nó. Vì thế, các tố cáo của các kinh-sư không có lý do vững chắc.
3.2/ Tội phạm đến Chúa Thánh Thần: “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời.”
(1) Tội nào là tội phạm đến Chúa Thánh Thần? Trước tiên, Chúa Thánh Thần là sự thật; vai trò của Ngài là giúp cho con người nhận ra sự thật từ sự giả trá. Nếu sau khi đã được Chúa Thánh Thần dạy bảo nhiều lần, một người vẫn ngoan cố không nhận ra sự thật, hay tệ hơn, cho sự gian trá là sự thật; người đó đã phạm đến Chúa Thánh Thần. Ví dụ: trong cuộc tranh luận của Chúa Giêsu với các kinh-sư, Chúa Giêsu đã lấy quyền năng của Thiên Chúa khai trừ thần ô uế ra khỏi con người. Sau khi đã được Chúa Giêsu cắt nghĩa cẩn thận và Chúa Thánh Thần soi sáng bên trong, mà các kinh-sư vẫn chối từ sự thật và ngoan cố cho Chúa Giêsu là “bị các thần ô uế ám;” họ đã phạm đến Chúa Thánh Thần.
(2) Tại sao tội phạm đến Chúa Thánh Thần không được tha? Điều kiện để được tha tội là con người phải nhận ra những tội của mình, ăn năn sám hối, và thú nhận tội lỗi của mình. Vì người phạm đến Chúa Thánh Thần không nhận ra mình có tội, nên cũng chẳng cần ăn năn sám hối và thú tội. Với một thái độ như thế, làm sao tội có thể được tha?
Vấn đề của nhiều người thời nay là thái độ tự cho mình là công chính; họ mất hết ý thức về tội lỗi, và không còn cho điều gì là tội nữa. Nếu những người này cứ giữ thái độ ngoan cố như thế cho tới chết, họ đã phạm đến Chúa Thánh Thần.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúa Giêsu là Thượng Tế đã dâng hy lễ là chính thân thể Ngài để tiêu diệt tội lỗi và gánh tội cho con người; nhờ đó, con người đã được hòa giải với Thiên Chúa và hòa giải với nhau.
– Chúng ta phải suy xét cẩn thận trước khi phán xét kẻ khác, để tránh những mâu thuẫn và phán xét không có cơ sở. Phải tránh xa những phán xét vì ghen tị và sợ người khác hơn mình.
– Để xây dựng và bảo vệ hiệp nhất, chúng ta cần loại bỏ các chủ nghĩa cá nhân, kiêu hãnh, tự mãn, lợi nhuận, để cùng chung sức xây dựng lợi ích chung cho gia đình, cộng đoàn, và xã hội.
– Chúng ta phải luôn mở rộng tâm hồn để đón nhận sự thật; và nhất là theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần bên trong. Đừng bao giờ cố tình tố cáo những người công chính.